Theo Điều 3 Luật BHXH (sửa đổi), trợ cấp hưu trí xã hội là loại hình BHXH do ngân sách nhà nước bảo đảm cho người cao tuổi đủ điều kiện theo quy định của Luật này.
Theo Khoản 1 Điều 4 Luật BHXH (sửa đổi), trợ cấp hưu trí xã hội có các chế độ sau: Trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng; hỗ trợ chi phí mai táng; hưởng bảo hiểm y tế do ngân sách nhà nước đóng.
Theo Khoản 3 Điều 6 Luật BHXH (sửa đổi), ngân sách nhà nước bảo đảm các chế độ của trợ cấp hưu trí xã hội.
Luật này còn khuyến khích các địa phương (tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng cân đối ngân sách và huy động các nguồn lực xã hội) hỗ trợ thêm cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Điều 21 Luật BHXH (sửa đổi) quy định đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, bao gồm 2 nhóm sau.
Nhóm thứ nhất là công dân Việt Nam được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội khi có đủ 3 điều kiện: (1) Đủ 75 tuổi trở lên; (2) Không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp BHXH hằng tháng; (3) Có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Nhóm thứ hai là công dân Việt Nam từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và đáp ứng đủ điều kiện (2) và (3) trong nhóm thứ nhất.
Luật này còn có điều khoản mở để Chính phủ, Quốc hội có thể giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước.
Theo Khoản 1 Điều 22 Luật BHXH (sửa đổi), mức trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng do Chính phủ quy định phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng của ngân sách nhà nước từng thời kỳ.
Định kỳ 3 năm, Chính phủ thực hiện rà soát, xem xét việc điều chỉnh mức trợ cấp hưu trí xã hội.
Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng cân đối ngân sách và huy động các nguồn lực xã hội, các tỉnh/thành có thể hỗ trợ thêm cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Điều kiện đầu tiên để có thể nhận trợ cấp hưu trí xã hội là có tuổi đời đủ 75 tuổi trở lên; hoặc người 70-75 tuổi thuộc hộ nghèo, cận nghèo.
Ngày 1/7/2025, khi Luật BHXH (sửa đổi) có hiệu lực, tuổi nghỉ hưu của lao động nam là 61 tuổi 3 tháng và lao động nữ là 56 tuổi 8 tháng.
Như vậy, vẫn còn một nhóm người lao động chưa được hưởng chế độ an sinh là những người đủ tuổi nghỉ hưu mà không đủ điều kiện để hưởng lương hưu hằng tháng và chưa đến tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí.
Điều 23 Luật BHXH (sửa đổi) quy định chế độ trợ cấp hằng tháng dành cho nhóm này. Theo đó, những người lao động không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội có thể được lãnh trợ cấp hằng tháng cho đến khi đủ điều kiện để nhận trợ cấp hưu trí xã hội.
Theo Khoản 1 Điều 23 Luật BHXH (sửa đổi), công dân Việt Nam đủ tuổi nghỉ hưu có thời gian đóng BHXH nhưng không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, nếu họ không hưởng BHXH một lần và không bảo lưu mà có yêu cầu thì được hưởng trợ cấp hằng tháng từ chính khoản đóng của mình.
Theo Điều 23 Luật BHXH (sửa đổi), thời gian hưởng, mức hưởng trợ cấp hằng tháng được xác định căn cứ vào thời gian đóng, căn cứ đóng BHXH của người lao động. Mức trợ cấp hằng tháng thấp nhất bằng mức trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng.
Trường hợp tổng số tiền đóng BHXH của người lao động cao hơn số tiền tính mức trợ cấp hằng tháng thấp nhất (cho khoảng thời gian từ khi đủ tuổi nghỉ hưu đến khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội) thì người lao động được tính để hưởng trợ cấp hằng tháng cao hơn.
Trường hợp tổng số tiền đóng BHXH không đủ để người lao động hưởng trợ cấp hằng tháng cho đến khi đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, nếu người lao động có nguyện vọng thì được đóng một lần cho phần còn thiếu.
Đặc biệt, mức trợ cấp hằng tháng được áp dụng các quy định điều chỉnh tăng thêm như lương hưu.
Trường hợp người đang hưởng trợ cấp hằng tháng chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần cho những tháng chưa nhận và trợ cấp mai táng (nếu đủ điều kiện quy định).
Người đang trong thời gian hưởng trợ cấp hằng tháng thì được ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế như chế độ hưu trí.
Link nội dung: https://chungkhoanthegioi.vn/can-biet-a48356.html